Chương 21: Chúa Làm Nên Mọi Sự Nên Mới
Hôm ấy là một buổi sáng Sa-bát tuyệt đẹp. Trong ngôi nhà thờ nhỏ đông đầy dân làng. Cả Thanh cũng có mặt ở đó nữa và ngồi gần sát phía trên.
Thầy Lắm khởi sự:
– “Hãy đến, hỡi các người được Cha Ta ban phước. Hãy đến hưởng lấy nước đã sắm sẵn cho các con từ khi đặt nền thế gian.” Hôm nay, qua trí tưởng tượng, tôi muốn đưa các bạn vào Giê-ru-sa-lem mới, tức thành Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đang mở cửa mời chúng ta vào.
Hãy nhìn đến sự vinh hiển của nơi này. Đường phố đều bằng vàng ròng và trong suốt. Vách thành và nền được tạo bằng ngọc quý với màu sắc của móng trời. Xung quanh ta đều có nhà cửa và khu vườn tuyệt đẹp. Nhưng cảnh rực rỡ hơn cả là ngôi Đức Chúa Trời ở trên cao, có móng trời bao quanh. Từ ngôi ấy, con sông sự sống tuyệt đẹp cuộn chảy ra va hai bên bờ sông có cây sự sống. Ai ăn trái ấy sẽ chẳng bao giờ chết.
Hãy nhìn đến gương mặt của Đức Chúa Giê-su trong khi Ngài ngắm xem các thành đồ vui vẻ tiến vào để nhận ngôi nhà mới của họ. Đó là niềm vui phô bày trước mặt Ngài – niềm vui được thấy dân Ngài được chuộc – đã ban cho Ngài có đủ can đảm chịu thống khổ trên cây thập tự.
Và bây giờ, ta nghe tiếng hoan hô chúc tụng vang dội khi tổ phụ loài người chúng ta tiến đến gặp Đấng Cứu Thế. Con Đức Chúa Trời đứng đợi với hai tay mở rộng để tiếp A-đam là người mà Ngài đã dựng nên, người đã phạm tội cùng Đấng Tạo Hóa mình. Vì cớ A-đam phạm tội, dấu đinh đóng mới lưu lại trên mình Đấng Cứu Thế. Trong khi A-đam nhìn đến những vết đinh oan nghiệt kia, ông không ngã mình vào lòng Chúa nhưng khiêm nhường phủ phục dưới chân Ngài, hô lên, “Xứng đáng thay Chiên Con đã bị giết.” Với cử chỉ ưu ái, Đấng Cứu Thế nâng ông dậy và mời ông ngắm lại cảnh vườn Ê-đen là nơi ông bi xa cách quá lâu rồi. Từ lúc bị đuổi ra khỏi vườn Ê-đen, cuộc đời của A-đam chứa đầy sầu cay. Mỗi chiếc lá tàn úa rơi rụng, mỗi hành động hung bạo mà ông thấy người khác phạm phải đều nhắc nhở ông đến tội mình. Ông phải chịu hình phạt của tội lỗi gần một ngàn năm, vì A-đam sống rất lâu.
Nhưng giờ đây A-đam tràn ngập niềm vui khi gặp lại cây mà ông thường ăn trái trước khi phạm tội. Ông gặp lại những cây nho mà tay ông đã từng uốn nắn, những đóa hoa mà ông thích chăm lo. Tâm trí ông nhận thấy rằng đây chính là vườn Ê-đen, và càng đẹp đẽ hơn khi ông bị đuổi ra khỏi nó. Đấng Cứu Thế dắt ông đến cây sự sống, hái trái rực rỡ và mời ông ăn. Ông nhìn quanh và kìa vô số người được chuộc đang đứng nơi Ba-ra-đi của Đức Chúa Trời. Bấy giờ ông tung kim miệm sáng chói của mình dưới chân Giê-su, ngã vào lòng Ngài. Gia đình Ađam gảy thụ cầm vàng và hát vang bài ca chiến thắng, “Xứng đáng thay, xứng đáng thay Chiên Con đã bị giết và nay lại sống!” Các thiên sứ đã khóc khi A-đam phạm tội cùng hòa giọng trong khúc nhạc mừng.
Ngày chờ đợi từ lâu, rốt lại đã lên.
Nhưng thiên đàng không phải là nhà của con cái Đức Chúa Trời trong suốt đời đời. Chúa đã hứa rằng họ sẽ hưởng được đất. Vì vậy sau thời gian một ngàn năm họ lại vượt không gian trở về địa cầu này. Thành Giê-ru-sa-lem mới cũng xuống với họ. Sau khi đất đã được luyện sạch với lửa, họ nhìn thấy một cảnh diệu kỳ: Chúa đã tạo thế giới nên mới. Một lần nữa, Ngài phán như lúc khởi thủy, núi non và đồng bằng, cây cỏ và muôn hoa, chim thú đầy đất với nét đẹp đẽ vui tươi. Mọi dấu vết của sự rủa sã đều qua hết rồi. Nơi đây, trong thế giới mới này, dân sự của Đức Chúa Trời sẽ ở mãi mãi.
Trong thế giới mới của Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ cất nhà riêng, chúng ta sẽ có chỗ ở trong thành mà Chúa Giê-su đã dọn sẵn cho chúng ta nhưng chúng ta cũng cất nhà mình ở đồng áng. Chúng ta có thể tạo nó đẹp như ý muốn với vật dụng là vàng và ngọc quý. Không ai đến đòi tiền thuê nhà cả. Không có ai hỏa hoạn cũng không lụt lội hủy hoại nhà ta. Chúng ta thụ hưởng vĩnh viễn.
Thầy Lắm mỉm cười, kể tiếp:
– Dân sự của Đức Chúa Trời sẽ trồng cây và ăn trái. Tôi sẽ rất sung sướng trong ngôi nhà mới của tôi vì tôi rất thích làm vườn. Tôi sẽ trồng rất nhiều hoa đẹp quanh nhà. Tôi sẽ trồng thứ cây trái mà tôi thích nhất là nho nữa, mà công việc trồng tỉa sẽ dễ dàng biết chừng nào! Không có cỏ dại, không có sâu bọ, không có bệnh tật, không hạn hán, không nước ngập hại vườn tôi.
Chúng ta sẽ yêu mến các loài thú nơi ấy. Không có thú nào hung dữ hoặc sợ hãi ta cả. Nếu muốn ta có thể nuôi cọp để chơi, hoặc quàng tay qua cổ sư tử. Kinh Thánh có chép rằng, “Bấy giờ muông sói sẽ ở với chiên con, beo nằm với dê con… một đức trẻ sẽ dắt chúng nó đi.” (Ê-sai 11:6).
Một trong những niềm vui cao quý nhất là tình bạn, và trên trái đất mới ta sẽ có bạn nào? Những người thân yêu đã bị sự chết chia rẽ với ta sẽ có mặt ở đất để niềm vui của ta được trọn. Sẽ chẳng bao giờ chúng ta lại xa nhau, chúng ta lại sẽ làm quen với dân sự Đức Chúa Trời qua các thời đại của lịch sử địa cầu. Những vị anh hùng thật của các thời đại sẽ có mặt nơi ấy. Thật cơ hội quý biết bao để được gặp và hiểu rõ họ. Chúng ta cũng sẽ gặp các thiên sứ đã từng che chở bảo vệ ta khỏi tai nạn cùng sự cám dỗ của đời này. Nhưng quý hơn cả là chúng ta sẽ gặp mặt vì Vua của chúng ta, là Đấng chúng ta hằng yêu mến nhưng chưa hề gặp mặt. Lại còn có những sự nhiệm mầu mà chúng ta có thể làm trong đời sống tương lai. Chúng ta có thể đi bất cứ nơi nào mình muốn với tốc độ ý muốn. Chúng ta sẽ chẳng những đi đến những nơi khác trên thế gian này thôi đâu, mà còn đi thăm các thế giới khác trong vòm trời bao la của Đức Chúa Trời, những thế giới có dân cư sinh sống mà chưa hề phạm tội. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ khám phá hết vũ trụ rộng lớn của Đức Chúa Trời vì nó là vô biên.
Chúng ta sẽ nghiên cứu, học hỏi khi vào nước Chúa. Nhưng sự học hỏi không làm chúng ta mệt mỏi như sự học hỏi ở thế gian này đâu. Tâm trí chúng ta sẽ nẩy nở mãi và chúng ta học sẽ rất dễ dàng. Chúng ta có thể học mọi sự, từ nguyên tử nhỏ bé nhất đến vì sao to lớn nhất. Sau khi đã khám phá ra những sự việc nhiệm mầu, sẽ còn biết bao nhiêu việc lạ lùng khác để học hỏi và ngắm xem. Chúa của chúng ta thật vĩ đại đến không thể nào ta học viết về sự sáng tạo của Ngài.
Có một môn học mà chúng ta sẽ rất thích học, đó là môn học về tình yêu của Đức Chúa Trời. Ta có thể tận dụng khả năng của trí tuệ, tuy vậy cũng không hiểuthấu Chúa lớn dường bao, là Đấng quyền uy của thiên đàng mà các thiên sứ bái phục lại hạ mình xuống để nâng đỡ con người sa ngã lên. Không bao giờ chúng ta quên được rằng Ngài đã gánh lấy tội lỗi và sự nhục nhã của tội, cùng sự che khuất mặt Cha Ngài đến sự rủa sã của thế gian làm tan nát lòng Ngài và cướp mất sự sống Ngài trên thập tự giá. Khi chiêm ngưỡng vì Vua vinh hiển của chúng ta, ta không thể nào hiểu được tại sao Ngài có thể yêu thương con người không ra gì đến thế. Chúng ta sẽ không bao giờ biết chán tung kim miệm của mình nơi chân Ngài cùng hát chúc tôn danh Ngài.
Thầy Lắm nhìn một lượt qua những con người vui vẻ ở trước mặt mình và nói:
– Các bạn có ca ngợi Ngài bây giờ không? Các bạn có muốn nói với Ngài rằng Ngài chịu khổ cho các bạn không phải là vô ích chăng?
Cụ Sáu đứng dậy ngay và nói:
– Tôi muốn ca ngợi Chúa. Trong đời tôi chưa bao giờ tôi được vui thỏa như hôm nay. Giờ đây tôi không sợ chết. Có thể tôi không còn sống lâu trên thế gian này, nhưng tôi mong được sống mãi trong nước Chúa.
Tèo đứng lên và nói đơn sơ:
– Cháu yêu thương Chúa Giê-su.
Ông Ba, Trung cùng những người khác bày tỏ tình yêu của họ và tạ ơn Chúa. Khi Thanh đứng dậy, mọi người chăm chỉ lắng nghe lời nó nói:
– Từ lúc bị tai nạn, tôi cảm thấy một sự thiếu thốn lớn trong đời sống tôi. Giờ đây, tôi thấy rõ là tôi đói khát Đức Chúa Trời. Tuy vậy, trước hết tôi chế nhạo đạo Giê-su. Tôi đã thấy những chứng cớ chỉ Kinh Thánh là thật, nhưng tôi không muốn vâng theo. Tôi bị thu hút đến Vua Giê-su, nhưng tôi không muốn Ngài bị ngự trị đời tôi. Khi thầy kêu gọi tôi, tôi đáp rằng: Chưa được! Tôi muốn vui chơi khi tuổi hãy còn trẻ. Tôi nghĩ rằng tôn giáo để cho người lớn tuổi. Từ lúc ấy, tôi càng cứng cỏi hơn. Cách nay vài tuần lễ tôi bỏ nhà đi. Tôi muốn đi khỏi chốn này – đi khỏi cha mẹ, thầy giáo và xa khỏi Chúa. Tôi muốn hưởng lạc thú ở đời. Tôi nếm thử rượu lần đầu xem nó ra sao. Tôi đi coi hát. Tôi hút thuốc nhiều hơn bao giờ cả. Nhưng tôi không gặp được hạnh phúc mà tôi tìm kiếm. Trái lại tôi khốn khổ vô cùng. Tôi tự khinh tởm lấy tôi. Hôm qua, tôi trở về nhà. Tôi cảm thấy lẻ loi trong gia đình, nhưng vẫn không muốn đá động gì đến Cơ Đốc giáo cả. Tôi hy vọng rằng không ai nói gì đến nó. Nhưng thật ra không ai cần nói gì cả. Tôi chỉ nhìn xem thôi, cũng đủ. Mọi sự việc trong làng tôi đều đổi khác. Ai nấy đều vui vẻ. Tuy thế, tôi vẫn muốn chế ngự lấy đời sống mình. Tôi không muốn ai cả – Đức Chúa Trời cũng vậy – biểu tôi phải làm gì.
Rồi đêm qua, thầy giáo kể chuyện đăng quang Vua Giê-su. Thầy kể chuyện quá thật đến tôi cảm thấy như có mặt tại chốn ấy. Tôi biết tôi sẽ phải đứng đâu – ở ngoài thành Giê-ru-sa-lem mới mà nhìn vào. Tận trong lòng tôi, tôi tự cảm thấy mình chết mất trong khi cha mẹ tôi cùng những người khác được cứu. Bấy giờ tôi giận dữ trở lại. Tôi tự nghĩ: Sao mình không thoát được mọi việc này kìa? Tại sao mình không hưởng thú vui ở đời như những thanh niên kia mà mình biết? Tại sao mình phải lo lắng về sự việc như thế này?
Tôi ra đi trước khi cuộc hội họp dứt. Tôi nhìn lên trời và nói: Chúa ôi! Xin lìa con đi và đừng bao giờ trở lại nữa. Nhưng Chúa biết trong lòng tôi thế nào. Một con người khác trong tôi lại kêu lên, “Chúa ôi! Xin đừng lìa con!” Tôi cứ rảo chân đi, đi mãi cho tới chỗ yên tịnh nọ một mình tôi. Tôi phải giải quyết vấn đề này cho xong. Tôi phải quyết định mới được. Không thể kéo dài tình trạng như thế này mãi, là ở giữa mà không thỏa lòng bên nào cả. Rốt lại tôi cúi đầu xuống và nói, “Lạy Chúa Giê-su, xin Ngài làm Vua của lòng con hôm nay.” Thình lình có việc lạ xảy ra. Sự bình tĩnh và vui vẻ tràn ngập lòng tôi. Trận chiến đã xong, tôi nói một mình, “Thật kỳ diệu quá. Sao ta không làm thế từ trước kia?”
Vì thế hôm nay, mọi người nhìn đến tôi là Lê Thanh, ai cũng có thể nói, “Một tên phản tặc nữa đã quy hàng Cứu Chúa.”
HẾT