Chương 11: Ngôi Mộ Trống Không
Khi thầy Lắm chuẩn bị để khởi sự nói chuyện, thì những áng mây đen kịt theo gió nồm ùn ùn kéo tới. Chẳng mấy chốc nữa thì những hạt nước mưa nặng nề sẽ bắt đầu rơi. Dân làng không thể họp nhau dưới những bóng dừa mát mẻ được nữa. Mưa đã bắt đầu.
– Chúng ta phải đi đâu bây giờ? – Thầy Lắm hỏi lớn.
– Thôi lại nhà tôi đi. – Ông Ba đáp. – Ở đằng ấy có đủ chỗ cho mọi người mà!
Thể theo lời, ai nấy đều chạy đến nhà ông Ba. Mưa đổ ào trên mái nhà và nước tuôn vào cái lu để sẵn hứng nước mưa. Thầy Lắm không thể nào nói đủ lớn để lấn áp tiếng mưa rơi được nên bắt đầu hát,
“Từ nguồn mạch Em-ma-nu-ên
Một dòng huyết láng lai tuôn trào;
Và tội nhân dầm mình trong suối huyết
Sẽ được sạch mọi vết nhơ.”
Sau khi thầy Lắm hát nhiều lần đoạn trên, những người khác có thể hát theo được. Mưa nhẹ lần và tạnh hẳn. Thầy Lắm cất tiếng hỏi:
– Trong quý vị có bao nhiêu người có Kinh Thánh riêng?
Thanh, Trung, cụ trưởng ấp trả lời là họ có.
– Tôi muốn lần tới quý vị đem Kinh Thánh theo và chúng ta cùng nhau xem một vài câu trong ấy. Ngay lúc ấy, Trung chạy vô phòng đem quyển Kinh Thánh của em ra. Thầy Lắm bắt đầu kể:
– Chiều qua, chúng ta tạm dứt câu chuyện lúc vị Hoàng tử nằm trong mộ. Cả một ngày dài đầy tủi nhục và khổ hận đã qua, sau rốt Đức Chúa Giê-su được an nghỉ.
Lê Thanh xen vào:
– Xin lỗi vì đã làm gián đoạn câu chuyện của thầy. Nhưng có một điểm tôi không hiểu nổi. Thầy nói vị Hoàng tử đã chiến thắng tên phản loạn, nhưng cớ tên phản loạn đã giết chết Hoàng tử nên tôi nghĩ rằng tên phản loạn kia mới là kẻ chiến thắng chứ!
Thầy Lắm đáp lời:
– Tên phản loạn sẽ thắng nếu vị Hoàng tử nằm luôn trong mồ. Đằng này Hoàng tử không còn nằm trong ấy.
– Thưa, thầy muốn nói thế nào?
– Ngài đã ra khỏi phần mộ rồi.
– Làm sao Ngài ra được?
– Ngài đã sống lại và đó là một phần của chương trình Ngài. Vị Hoàng tử của chúng ta biết rõ những gì sẽ xảy ra cho Ngài trước khi việc ấy được ứng nghiệm. Ngài đã phán cho các môn đồ Ngài rằng Ngài sẽ chết, đến ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Ngài đã phán điều ấy trong sách Ma-thi-ơ đoạn 10 câu 33 và 34 như vầy, “Này, chúng ta lên thành Giê-ru-sa-lem, Con Người sẽ bị nộp cho các thầy tế lễ cả cùng các thầy thông giáo; họ sẽ định Ngài phải tử hình, và giao Ngài cho dân ngoại. Người ta sẽ nhạo báng Ngài, nhổ trên Ngài, đánh đập Ngài mà giết đi; sau ba ngày, Ngài sẽ sống lại.”
Tèo hỏi:
– Có phải việc xảy ra đúng y như Ngài đã phán không, thưa thầy?
Trung hỏi tiếp:
– Đến ngày thứ ba Ngài có sống lại hay không? Tôi muốn nghe chuyện đó lắm.
– Chúa chết vào buổi chiều ngày thứ sáu trong tuần lễ. Khi mặt trời lặn vào chiều ấy, ngày Sa-bát bắt đầu. Chúa nằm nghỉ ở trong mồ trong ngày Sa-bát. Em nhớ rằng Ngài nghỉ trong ngày Sa-bát đầu tiên không?
Tèo trả lời:
– Có, khi Ngài dựng nên thế gian.
– Đúng, và ngày ấy là ngày thứ mấy?
Có vài người đồng trả lời:
– Ngày thứ bảy!
– Và bây giờ, một ngày thứ bảy khác, Ngài đã nghỉ ngơi việc cứu người.
Nhưng những kẻ thù của Ngài không nghỉ được. Họ nhớ Ngài đã phán về việc Ngài sẽ bị giao vào tay họ để họ chế nhạo, đánh đòn và đóng đinh Ngài, rồi đến ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Khi nghe những lời này, họ đã chế giễu Ngài. Nhưng giờ đây họ thấy mọi lời Chúa phán trước đều xảy ra đúng y như vậy, và họ sợ Ngài sẽ sống lại vào ngày thứ ba như Ngài phán. Nghĩ đến điều ấy, họ vô cùng sợ hãi. Họ đến xin với Phi-lát, quan Tổng đốc La Mã rằng, “Bẩm quan, chúng tôi nhớ khi còn sống tên lừa bịp kia nói rằng sau ba ngày nó sẽ sống lại. Xin quan ra lệnh niêm phong ngôi mộ đến ngày ấy kẻo thừa lúc đêm tối, môn đồ nó đến cướp xác rồi phao với dân chúng rằng nó đã sống lại rồi, và như thế lỗi lầm sau này sẽ còn quan trọng hơn lần đầu nhiều.” Phi-lát cho phép họ làm theo ý họ.
Liền lúc ấy, họ đi niêm phong ngôi mộ. Một hòn đá to đã được chận ngay cửa mộ rồi. Họ liền lấy dây cột hòn đá ấy vào vách đá thật chắc rồi đóng ấn La Mã lên. Người ta không thể nào lăn hòn đá mà không làm bể ấn chỉ kia. Họ phải có một đại đội với 100 lính để canh gác xung quanh mộ, giữ không cho ai đến gần cả. Các thầy tế lễ muốn giữ Hoàng tử ở trong ấy luôn.
Chương trình của con người định mới kém khuyết làm sao, và mọi cố gắng của họ mới vô dụng làm sao ấy. Cả những hòn núi chồng lên ngôi mộ cũng không thể giữ Con Đức Chúa Trời lại được. Giờ phải thoát của Ngài cứ đến từ từ. Tối thứ bảy chậm chạp biến mất. Đấng Christ vẫn nằm trong mộ. Hòn đá to lớn vẫn còn nằm yên tại chỗ. Ấn tín La Mã vẫn còn nguyên vẹn và lính canh La Mã vẫn còn canh gác quanh ngôi mộ.
Thình lình có trận động đất lớn vì thiên sứ của Chúa từ trời xuống. Dung mạo của thiên sứ như ánh chớp và áo trắng như tuyết. Các lính canh sợ run lên và như chết hết thảy. Họ thấy thiên sứ lăn hòn đá như viên sỏi và nghe tiếng kêu lớn:
“Hỡi Con Đức Chúa Trời, hãy chờ dậy, Cha Ngài đang gọi Ngài kìa.” Họ thấy Đức Chúa Giê-su đứng dậy khỏi cái giường đá mà người ta đặt Ngài lên hôm trước, và đi ra khỏi mồ. Ngài đã thắng.
Những lính canh nhìn cách lạ lùng lên Đấng mà mới đây họ đã hành hạ và chế giễu. Họ nhớ đã làm mão gai đội lên đầu Ngài và mặc áo đỏ cho Ngài. Và bây giờ rất đỗi ngạc nhiên mà thấy Ngài sáng rực hơn cả ánh mặt trời. Họ là những lính can đảm, chưa hề biết sợ hãi là gì mà nay phủ nhục dưới đất như chết.
Khi Đức Chúa Giê-su đi rồi, họ liền ngồi dậy và chạy trối chết về thành. Với dáng điệu như kẻ say, họ kể lại câu chuyện lạ kỳ kia với bất cứ người nào mà họ gặp. Khi các thầy tế lễ gặp họ thì họ đang trên đường đến dinh của Phi-lát. Họ run sợ và mặt tái mét, kể lại việc Chúa sống lại như đã thấy. Họ không có thì giờ và không đủ tính trí để thêm bớt gì cả. Họ nói, “Chính Con Đức Chúa Trời là Đấng đã bị đóng đinh. Chúng tôi đã nghe thiên sứ tuyên ca rằng Ngài là Vua trời.”
Nét mặt của các thầy tế lễ tái xanh như xác chết. Cai-phe cố gắng để nói, môi ông mấp máy nhưng không phát ra tiếng nói nào cả. Các lính canh sắp sửa đi khỏi phòng họp thì có tiếng gọi họ lại. Sau rốt Cai-phe đã nói được. Ông gọi: “Hãy khoan, đừng kể cho ai nghe về điều các người đã thấy cả, mà nói rằng đương ban đêm có môn đồ của Ngài đến cướp xác đi trong khi các ngươi ngủ quên nhé!” Những người lính canh không muốn nói như vậy vì đang phiên canh gác mà ngủ quên sẽ bị xử tử. Nếu kể lại câu chuyện như vậy thì mạng sống của họ bị nguy hiểm lắm đó.
Thầy tế lễ nói, “Này, đừng lo. Phi-lát không xử tội các ngươi đâu, chúng ta sẽ đi gặp Phi-lát để bênh vực cho các ngươi.” Các thầy tế lễ đã hối lộ lính canh rất nhiều để nói theo lời họ dặn. Cho đến khi gặp các thầy tế lễ những người lính canh kể những câu chuyện lạ lùng nhất trong lịch sử, nhưng khi ra khỏi thì chỉ còn sự giả dối nơi môi miệng họ thôi. Sức mạnh của đồng tiền là thế.
Phi-lát đồng ý với mưu đồ ấy, nhưng từ ngày đó trở đi các thầy tế lễ và Phi-lát luôn luôn lo sợ, nhất là khi đi ngoài đường hoặc lúc trong nhà một mình. Họ sẽ phải gặp Chúa Christ. Họ cảm thấy rằng không còn gì có thể bảo đảm an ninh cho họ được nữa cả. Nhưng khoen sắt và chốt gài cửa không thể giữ họ khỏi Con Đức Chúa Trời được.
Trong khi những kẻ này không hề mong muốn được gặp lại Chúa, thì những kẻ khác lại nát lòng vì sợ không gặp lại Ngài được. Trong vòng những người đàn bà từng hầu hạ Chúa, có một người rất yêu thương Ngài. Người ấy là Ma-ri Ma-đờ-len. Chúa đã đuổi bảy quỷ dữ khỏi bà, Chúa đã tha tội bà. Và khi La-xa-rơ anh của bà chết, Chúa đã đến và kêu ông ấy ra khỏi mộ để sống với bà. Chúa thường ghé thăm nhà Ma-ri và Ma-ri thường ngồi dưới chân Chúa để nghe những lời dạy dỗ quý báu của Ngài. Chỉ mới tuần lễ trước đây thôi, bà đã dâng cho Chúa một món quà rất quý để tỏ sự yêu thương của bà đối với Ngài. Bây giờ bà quá đau khổ vì Ngài đã chết. Bà nghĩ rằng bằng cách săn sóc xác Ngài mà vơi được nỗi buồn và tìm ra nguồn an ủi.
Sáng sớm ngày thứ nhất, trong khi bầu trời hãy còn tối, bà đã lên đường đi đến ngôi mộ. Bà nghĩ không biết sẽ nhờ ai lăn hòn đá nơi cửa mộ. Nhưng khi đến nơi bà rất ngạc nhiên mà thấy hòn đá đã được lăn đi rồi. Nhìn vào trong mồ, bà thầy mồ trống không. Xác của Chúa Giê-su đã biến mất rồi. Bà liền chạy đi báo tin ấy cho các bạn hữu biết, “Họ đã đem Chúa ta ra khỏi mộ rồi và chúng tôi không biết họ để Ngài ở đâu.”
Có hai môn đồ tên Phi-e-rơ và Giăng liền chạy đến phần mộ để xem lời Mari nói có thật chăng. Họ thấy mộ trống rỗng thật, nhưng hơn thế nữa, vải liệm của Ngài được xếp lại và đặt tử tế lên chỗ họ đặt Ngài nằm. Giăng nhớ lại lời Chúa phán rằng Ngài sẽ sống lại vào ngày thứ ba và tin ngay. Xong, cả hai trở lại thành phố.
Nhưng Ma-ri vẫn còn ởi lại bên mộ và than khóc. Một lần nữa, bà nhìn vào hầm mộ và thấy nó có hai thiên sứ đang ngồi trong ấy, một vị ở phía đầu và một vị ở phía chân chỗ để xác Chúa. Các thiên sứ nói rất dịu dàng, “Hỡi người nữ, sao ngươi khóc?” Mắt Ma-ri đầy lệ và không biết rằng mình đang nói chuyện với thiên sứ. Bà trả lời với giọng buồn thảm rằng, “Họ đã đem xác Chúa tôi đi rồi. Tôi không biết họ để ở đâu.” Rồi bà lánh đi – ngay cả với thiên sứ. Có một giọng khác rất dịu hiền hỏi bà rằng, “Hỡi người nữ, sao con khóc? Con tìm ai?” Dầu mắt đẫm lệ, bà cũng có thể thấy được hình dáng của một người đàn ông và nghĩ rằng người ấy là người làm vườn nên đáp, “Này ông, nếu có ai đem xác Ngài dấu ở đâu, xin làm ơn cho tôi biết và tôi sẽ đem đi.” Thật là một niềm an ủi tuyệt diệu nếu bà được lo liệu cho thể xác của Đức Thầy yêu dấu của bà. Rồi với giọng nói quen thuộc, người ấy gọi ba, “Hỡi Ma-ri!” , Ma-ri ngẩng đầu lên và nhìn thấy vị Hoàng tử hằng sống của bà. Trong niềm vui tuyệt đỉnh bà đã quên khuấy đi mất rằng Ngài đã bị đóng đinh. Bà liền nhảy vồ lại Ngài để hôn chân Ngài. Bà kêu lớn, “Lạy thầy!” Chúa ngăn lại, “Đừng rờ tới Ta, vì Ta chưa lên cùng Cha. Hãy đi báo cho anh em Ta rằng Ta lên để gặp Cha Ta tức Cha các con, là Đức Chúa Trời Ta tức Đức Chúa Trời các con.”
Rồi Chúa biến mất. Nhưng Ma-ri biết chắc rằng Ngài đã sống lại rồi. Chính bà đã trông thấy Ngài. Chính bà đã nghe tiếng Ngài. Bà chạy thẳng về thành kể cho mọi người nghe tin diệu kỳ này.
Nguồn tin ấy đã đảo lộn cả thế giới. Đó là một tin trọng đại của thời bấy giờ cũng như thời bây giờ. Vị Hoàng tử không còn chết nữa mà đã sống lại rồi. Các vị thần thánh khác đều chết hết và chúng ta có thể đi thăm mộ họ được. Chúng ta có thể thấy rằng, tóc hoặc xương của họ đã được giữ kỹ trong chùa chiền hay các đền kỷ niệm. Chúng ta có thể đọc lên kinh kệ để nhắc tới sự dạy dỗ của họ trong đền thờ và biết rằng các vị thần ấy không thấy, không nghe, cũng không biết chúng ta.
Nhưng đằng này Đức Chúa Giê-su đã sống lại rồi. Mộ Ngài còn bỏ trống. Chúng ta không cần phải thờ lạy di vật hoặc hài cốt Ngài. Chúng ta không phải làm hình tượng để nhắc nhở chúng ta về Ngài. Chúng ta thờ lạy Ngài trực tiếp. Ngài hiểu rõ chúng ta. Ngài nghe chúng ta và giúp đỡ chúng ta. Ngài là Anh Cả của chúng ta vừa là Bạn thân của chúng ta, và hiện đang ở bên tay hữu của Cha Ngài ở trên trời. Việc ấy há chẳng phải là một tin diệu kỳ sao?